Đất Cẩm Hà Hội An đang được du khách quan tâm rất nhiều
Cẩm Phô là một làng được hình thành sớm hơn ở Hội An, khu dân cư chủ yếu nằm bên sông Hội An đã đi vào lịch sử và thơ ca của Hội An Xứ Quảng (1). Biên giới phía nam của Cẩm Phô là sông giáp thôn Kim Bảng (xã Tiền Kim) và huyện Duy Xuyên, phía bắc và phía tây giáp thôn Thanh Hà (nay chia ra huyện Thanh Hà, xã Cẩm Hà, huyện Tân An); phía đông giáp làng Hội An, Minh Hương (nay là huyện Minh An) và một phần làng Sơn Phố (nay là huyện Cẩm Châu), một phần làng An Thổ Phong Hồ (nay là huyện Sơn Phong). Sông Huaihe ban đầu là một phần của hạ lưu sông Qiuben, vùng hạ lưu rộng lớn này ban đầu được hợp lưu bởi ba nguồn sông chính của Guangxu (bao gồm Qiuben, Wujia và Yangtze River), sau đó rời Gudai. Đại dương.
Nhìn chung,
điểm đặc biệt đất Cẩm Hà Hội An
bị chia cắt bởi các cồn cát, bờ sông và các sông rạch (lạch Chùa Cầu – khe Ô Ô). Đặc điểm địa hình, thủy văn này khiến cho dân cư Cẩm Phô định cư rất đa dạng và phân bố ở các vị trí khác nhau. Có nhóm cư dân sống trên cồn cát (sông), nhóm khác sống ở ven sông hoặc trên các bãi cát, cồn cát. Vì vậy, làng Cẩm Phổ ban đầu được chia thành các khu dân cư: trên cồn (nay là Cẩm Nam) có 3 châu (Tam Châu): Xuyên Trung, Châu Trung, Hà Trung. Dọc theo sông có làng Tule và làng Chunlin, sâu vào các cồn cát và đất cát có làng Changle. Đặc điểm này cũng tạo nên sự đa dạng, phong phú trong các hoạt động kinh tế, văn hóa của dân làng Cẩm Phô theo từng vùng định cư trong lịch sử hình thành và phát triển.
Đặc biệt tại di chỉ khảo cổ Chun Lam (nay là Chun Lam Block, Jin He) và toàn Hội An, kết quả nghiên cứu khoa học cho chúng ta biết cách ngày nay hơn 2.000 năm, cách ngày nay hơn 2.000 năm trên vùng đất Jin He. có người ở. Đây là một lớp cư dân của quần thể văn hóa Sa Hoàng ở miền Trung Việt Nam. Tiếp theo là cư dân của Vương quốc Champa từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 15 sau Công Nguyên.
Thị trường đất Cẩm Hà Hội An
Bước sang thời kỳ Đại Việt, bắt đầu từ thế kỷ 14, từ nhiều tư liệu lịch sử có thể biết rằng sau sự kiện công chúa Trần Huyền Tông (nhà Trần) năm 1306, Tấn Hà và hầu hết các vùng phía bắc và tây bắc Hội An. là một phần lãnh thổ của vương quốc Việt. Nhưng trên thực tế, nơi đây vẫn là một khu vực mà người Chăm chống lại các cuộc tranh luận sôi nổi. Tháng 3 năm Nhâm Ngọ 1402 (tức đời Hồ Hán Thương, niên hiệu Thiệu Thành thứ 2), vua ra lệnh “sửa đường từ thành Tây Đô đến Hóa Châu, sửa sang lại và trải dọc, gọi là lộ. “thiên lý”. Vì vậy, Hồ Trở về với hoàng đế Lý “Tháng 7, ông ta cử một đại quân đánh chiếm Champo. Vua nước đó là Bá-Di-lại – lại dâng đất Chiêm Động và Cổ Lỗ. Quý Ly được chia làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và An cung, nơi đặt sứ Thăng Hoa, cai quản … Ông đưa những người không có ruộng đất nhưng tài sản đến biên giới Thăng Hoa. nghĩa quân và thuyết phục dân giao trâu nước, rồi xin quan giao trâu nước cho dân định cư ”(2) và“ Ai đến châu nào thì phải khắc tên châu đó trên cánh tay, ngụ ý. Họ sẽ giữ bờ cõi đến cùng ”(3)
Nhưng sự nghiệp của nhà Hồ đã gần kết thúc, cuối năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta, và cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại do Ngài lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại. , từ năm 1407 đến năm 1427, quân Minh đã thiết lập chính quyền đô hộ ở nước ta, đồng thời do nhiều nguyên nhân khác nhau, quân Minh không thống được vùng đất nhà Hồ mới chiếm được ở phía nam là đèo Vịnh ngày nay. một sử gia triều Nguyễn, ông viết: “Thời nhà Minh, lập cung Đường Hoa… Cung chỉ bị lề, đất đai đã bị người Champa chiếm. Những năm đầu thời Lê, được đặt làm đất Kymi.
Vì vậy, vào thời kỳ này, cùng với vùng đất Hội An, Cẩm Phô là vùng đất tranh chấp, có quyền quản lý của nhà nước, có khi thuộc về Minh, Đại Việt, có khi là Champa, có khi sống chung với người Chăm. Người Việt Nam phải thông minh, dũng cảm, tế nhị để ổn định cuộc sống và làm ăn, năm 1471, vua Lê Thành Thống (tên là Hồng Đế) đánh thắng Champo để chiếm lại vùng đất này, đặt tên là Thừa tuyên Quảng Nam, Cổ Lũy và Cổ Lũy. là đất của chúng tôi, gần đây bị mất. Chiêm Thành lúc này đã hoàn hồn, phái lính canh, kẻ nào dám trái lệnh, kẻ nào chém trước. Ông cũng cử Du Dugui ra lệnh cho Đông Chi Châu chăm sóc quân dân của Dajian, và để cho Li Darling ra lệnh cho Chizhou chăm sóc quân dân của Kelu. Người Kim nào dám làm loạn thì trước sau gì cũng phải chém ”(5).
Các bạn hãy truy cập vào
https://linkhay.com/u/nhadathoian
để biết thêm chi tiết
Bất động sản Cẩm Hà Hội An
Đây là thời kỳ chế độ phong kiến Việt Nam cực thịnh với vua Lê Thành Đồng. Trong thời kỳ Việt gian, việc xây dựng chính quyền phong kiến ở đây đã đủ sức ổn định bờ cõi. Và cũng cần tổ chức chính quyền đến thôn – xã – thôn – bản – cơ sở của chính quyền trung ương và địa phương. Đây là cơ hội khai sinh cho các làng nghề của Hội An, đặc biệt là Cẩm Phô.
Vào thời điểm này, Làng Cẩm Phô được hình thành cùng với các làng khác trong vùng Hội An như Vọng Nhi, Thanh Hà, Hoài Phố, Cổ Trai. Trong gia phả họ Hoàng vẫn còn được lưu giữ trong nhà thờ Chu Trung ở quận Tấn Nam ngày nay, người ta biết rằng “Gia tộc Huangmeng sinh ra ở quận Jianghe và sinh ra ở phía bắc của làng. Khi triều đại Nam Jin-Lihongde được xây dựng, thành phố Duban bắt sống Chaquan Tổ tiên của chúng ta đã di chuyển xuống phía nam và định cư ở phía nam theo phong trào, và đến đây cùng các bạn để tỏ lòng tôn kính đối với người tự xưng là phía đông của bộ tộc, và thành lập một xã lấy tên là Làng Cẩm Phô Long Phi Gia Đan Năm thứ 6). Đây có thể nói là một bằng chứng nổi bật của cuộc di cư đến Cẩm Phô vào cuối thế kỷ 15 trên vùng đất Hội An này để lập làng.
Ngoài ra, tác giả Dương Văn An cho chúng ta biết trong tác phẩm “ u cận kỷ lục” viết vào thế kỷ 16 (1553) rằng có hai tên làng, xã có vai trò và vị thế quan trọng ở Hội An ngày nay trên vùng đất của Hội An. Có tầm quan trọng và quy mô lớn, được cả nước phong kiến thời bấy giờ công nhận là Làng Huipo và Làng Jinpo. Quá trình di dân và lập làng ở đây phải diễn ra trước năm 1553.
Dân số Cẩm Phô ngày càng đông khi những cuộc di cư lập làng ở tỉnh Hội An-Quảng tiếp tục có liên quan mật thiết đến kế hoạch tạo nghiệp lâu dài của Chúa Nguyễn, với lời tích “Hoành Điếm” “Sun Yidia, Wan Da Dung Body” từ cuối thế kỷ XVI. Năm 1558, Ruan Huang vào trấn thủ Huế, đến năm 1570 ông kiêm luôn chức Tổng đốc Quảng Nam. Đồng thời cử sáu người con trai là Nguyễn Phúc Nguyên sang trấn giữ, đến năm 1604, chúa Nguyễn Hoàng cho chia tách, sắp xếp lại hệ thống đơn vị hành chính ở Thuận Quảng, tách Điện Bàn thành phủ Thụy Phong. Chính phủ xây dựng chính phủ. Đồng hồ đo điện. Lúc này, Cẩm Phô thuộc huyện Diên Phước / Diên Khánh, và thị xã Quảng Nam, huyện Điện Bàn.
Ở
Bán đất Cẩm Nam Hội An
ngày nay, 4 chi tộc hiền triết được biết đến: Huỳnh, Trần, Lê và Nguyễn. Qua bia mộ của tổ tiên tộc Lai có ghi: “… Xưa kia, Gyadu Hướng Đức (tức Nguyên Hương) lập Thuận Quang, trong khi từ phương bắc vào (không rõ tỉnh) là trưởng lão của tộc họ:” Họ Huỳnh, họ Trần, họ Nguyễn Đến khai phá đất Quảng, trồng trọt rộng hàng trăm mẫu, có sông ngòi đông tây bao bọc, thành một làng đẹp ”(7). Như đã nói ở trên, Làng Cẩm Phô được thành lập từ rất sớm. Đến đây, rất có thể sẽ có thêm nhiều dân tộc và các nhóm cư dân khác góp phần mở rộng và phát triển Cẩm Phô trong thời kỳ di cư này.